Trồng trọt và phân bố Chè_(thực_vật)

Hoa trà

Trà thường được trồng ở vùng nhiệt đớicận nhiệt đới, nơi có lượng mưa tối thiểu là 127 cm. (50 inches) mỗi năm. Khí hậu ẩm ướt và nhiều nắng ấm là hai yếu tố chính. Ngoài khu vực lý tưởng kể trên, cây trà có thể sống suốt từ đường xích đạo lên đến miền nam nước Anh như Cornwall.[1] Trà ngon thường mọc ở cao độ trên 1,500 mét (4,900 feet) để cây trà phát triển chậm, tích tụ nhiều hương vị đậm đà.

Quả cây trà xanhCamellia sinensis

Việt Nam

Nước chè xanh, lá chè xanh vo vào ấm đun sôi lấy nước uốngNhững cây chè Shan tuyết cổ thụ

Cây trà tại Việt Nam đến giữa thế kỷ XX được trồng khắp miền quê ngoài BắcTrung (phương ngữ tại đây thường gọi là chè), diện tích lớn nhất ở hai tỉnh Phú ThọQuảng Nam.[2] Loại này thân mọc cao, lá lớn và dày, có thể hái về vò nát để nấu uống tươi gọi là chè xanh. Loại thứ hai là chè đồn điền du nhập từ phương Tây, cây thấp, lá nhỏ, thường phải ủ rồi mới nấu nước. Hạng nhất là chè búp (hoặc chè nõn tôm), có khi gọi văn vẻ là "chè bạch mao" hay "chè bạch tuyết" nếu búp có lông tơ trắng ở đầu ngọn. Hạng nhì là hai lá chè kế (còn có thể phân chia "một tôm một lá" tức lấy búp và một lá kế, và "một tôm hai lá" tức lấy búp và hai lá tiếp theo). Lá thứ tư, thứ năm là chè hạng ba. Những lá dưới nữa thì dùng làm chè mạn, rẻ hơn cả.[3]

Một đồi chè ở Phú Thọ

Đồn điền cây trà thì mãi đến năm 1924 thời Pháp thuộc mới bắt đầu hoạt động ở vùng Cao nguyên Trung Kỳ gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, DarlacĐồng Nai Thượng.[4] Sang thập niên 1930, trà được đem trồng một cách quy mô trên cao nguyên vùng B'laoDjiring và vùng này sau chiếm địa vị là vựa trà.[5]

Tính đến năm 1960, Việt Nam xuất cảng 2.000 tấn trà mỗi năm.[3] Đến năm 2007 thì sản lượng trà của Việt Nam đã vượt một triệu tấn, canh tác trên 125.000 hecta.[5]

Vào đầu năm 2016, thị trường lớn nhất mua trà Việt Nam là Pakistan chiếm khoảng 1/3 thị phần. Việt Nam cũng là nước xuất cảng trà đứng thứ năm trên thế giới. Tuy nhiên giá bán thấp hơn so với các nước khác vì phẩm chất kém, chỉ đạt 60-70% giá thị trường quốc tế.[6]

Ấn Độ

Phần lớn trà được sản xuất tại Ấn Độ gọi là trà Assam (đôi khi nó được gọi là C. sinensis assamica hay C. assamica). Đây là loại cây nhỏ (thân đơn), lá to bản. Trong thiên nhiên, trà Assam có thể mọc cao đến 6 - 20 mét (20–65 ft); nhưng khi canh tác thì cây được xén kỹ chỉ còn cao nhỉnh hơn thắt lưng người. Ở những vùng đất trũng, cây trà cần độ ẩm cao (mưa nhiều) nhưng đất trồng phải ráo nước, không được úng. Những cây trà thuần hóa không chịu được nhiệt độ quá cao.

Cây trà Assam được phát hiện năm 1823 (mặc dù đã được người dân địa phương sử dụng làm đồ uống từ lâu). Trà Assam sau đó được dùng là một trong hai giống trà gốc. Tất cả các cây trà Assam và phần lớn trà Ceylon (Tích Lan, nay là Sri Lanka) có nguồn gốc từ giống cây này. Trà Assam có hương vị ngọt khi pha nước uống, không giống như vị các loại trà Trung Hoa.

Cam pu chia

Trà Campuchia đôi khi được gọi là C. sinensis parvifolia. Lá trà này về kích thước trung bình, giữa lá trà Assam và lá trà Trung Quốc; nó là một loại cây nhỏ, dạng bụi. Đôi khi người ta coi biến thể này là sản phẩm lai ghép của trà Assam và Trung Quốc.

Trung Quốc

Mặt cắt thân cây trà

Trà Trung Quốc (đôi khi gọi là C. sinensis sinensis) là loài cây lá nhỏ, nhiều thân mọc thành bụi rậm cao tới 3 mét. Đây là loại trà đầu tiên được ghi nhận với lịch sử trong văn tịch hơn 3000 năm, trà này được dùng sản xuất nhiều loại trà nổi tiếng.